(TSVN) – Mục tiêu của nước ta đến năm 2030, nuôi biển đạt sản lượng 1,45 triệu tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu 1,8 – 2 tỷ USD. Hiện nay nuôi biển còn tự phát thủ công, yêu cầu đặt ra cần tổ chức lại ngành nuôi biển theo hướng tăng hàm lượng công nghệ, quy hoạch cụ thể vùng nuôi, đảm bảo kiểm soát các vấn đề môi trường để phát triển bền vững.
Một góc trang trại của HTX Phất Cờ ở huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
Khởi sắc ở Quảng Ninh
Tỉnh Quảng Ninh có diện tích mặt biển trên 6.000 km2, một tiềm năng lớn cho nuôi cá biển bằng lồng bè. Hiện đã có hơn 15.000 ô lồng nuôi cá biển trên diện tích khoảng 2.200 ha, tập trung ở Vân Đồn, Đầm Hà, Hải Hà, Cẩm Phả.
Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản tỉnh Đỗ Đình Minh cho biết, năm 2022, thủy sản nuôi đạt 87.000 tấn, chiếm hơn 54% tổng sản lượng thủy sản 161.000 tấn, đẩy thủy sản khai thác xuống tỷ lệ gần 46%. Trước đây, sản lượng thủy sản nuôi thấp hơn khai thác, như năm 2014 nuôi chỉ chiếm 43%, còn khai thác 57%. Kết quả cho thấy, nuôi trồng phát triển nhanh và phù hợp chủ trương tăng nuôi trồng, giảm khai thác.
Quảng Ninh cũng đẩy mạnh công nghiệp hóa nuôi trồng. Thấy rõ nhất là việc thay vật liệu nổi trong nuôi trồng bằng vật liệu mới bền hơn và thân thiện với môi trường. Điển hình như HTX Phất Cờ ở huyện Vân Đồn, một trong những cơ sở đi đầu sử dụng phao nổi và lồng bè nuôi cá bằng chất liệu HDPE. HTX kết hợp với Tập đoàn nhựa Super Trường Phát xây dựng trang trại nuôi biển kết hợp du lịch.
Trang trại rộng 5 ha có khu nhà điều hành, đón khách 240 m2 với sức chứa trên 60 người; lồng phục vụ khách tham quan bơi, tắm biển; bè check-in với diện tích 16 m2. Lồng nuôi cá có các lồng vuông rộng 16 – 30 m2, các lồng tròn đường kính 12 m nuôi cá song, chim, vược… Đến tham quan, du khách được trải nghiệm câu cá trên bè, thưởng thức sản phẩm tự khai thác, chế biến và muốn tìm hiểu các lồng hiện đại cũng như công nghệ nuôi cá đều được đáp ứng. Bà Nguyễn Thị Hải Bình, Tổng Giám đốc điều hành Tập Đoàn Super Trường Phát cho biết, nuôi biển kết hợp du lịch sinh thái là hướng đi chiến lược khai thác tiềm năng vùng biển nước ta.
Mô hình tàu nuôi biển vùng khơi xa. Ảnh: Ngọc Duyên
Tích hợp đa ngành
PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam phân tích, ngành nuôi biển phát triển bền vững là sự phát triển đa ngành, bởi nuôi biển tích hợp đa ngành. Trước hết, thấy rõ việc kết hợp du lịch; phát triển nghề cá giải trí, du lịch biển trải nghiệm nuôi biển, thu hút du khách bằng loại hình du lịch mới.
Ngành nuôi biển phát triển cũng phát triển sản xuất và cung ứng vật liệu HDPE, composite. Phát triển ngành đóng tàu để chế tạo các loại thiết bị nuôi biển công nghiệp; xà lan phun thức ăn, tàu chuyên dụng, cano, sàn công tác. Ngành điện – cơ khí cũng phát triển để cơ giới hóa nuôi biển, phát điện bằng năng lượng mặt trời gió, sóng, thủy triều; lọc nước ngọt từ nước biển. Đồng thời, phát triển ngành tự động hóa để chế tạo thiết bị cho ăn tự động, kiểm soát môi trường biển real-time, camera ngầm. Công nghệ sinh học cũng phát triển để phục vụ men, vaccine, chế phẩm sinh học; công nghiệp chiết suất các chế phẩm sinh học cao cấp từ hải sản.
Nuôi biển là ngành kinh tế tích hợp đa ngành nên mọi tiếp cận vấn đề cần sự tổng hợp. Với quan điểm tiếp cận tổng hợp, bàn về việc phát triển nuôi biển kết hợp du lịch để trở thành một ngành kinh tế, gia tăng thu nhập cho người dân, PGS.TS Phạm Quốc Hùng ở Trường Đại học Nha Trang đề xuất 5 giải pháp: Thứ nhất, tham khảo các mô hình nuôi biển kết hợp du lịch ở các nước trên thế giới, vận dụng vào điều kiện Việt Nam. Thứ hai, cần có các mô hình thí điểm, từ đó đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội, tác động môi trường và hệ sinh thái. Thứ ba, xây dựng và bảo tồn được hệ sinh thái nuôi thủy sản trên biển, nhằm bảo vệ sự đa dạng sinh học và khai thác giá trị của các hệ thống nuôi và cảnh quan thiên nhiên. Thứ tư, trang bị kiến thức và kỹ năng thực hành du lịch cho người nuôi biển. Thứ năm, cần quy hoạch tổng thể quốc gia.
>> Nước ta đã phát triển nuôi biển tại 3 trung tâm du lịch nổi tiếng ở Bắc, Trung, Nam rất có ý nghĩa là tỉnh Quảng Ninh, Khánh Hòa, Kiên Giang. Quảng Ninh nuôi cá biển và động vật thân mềm bằng lồng bè, Khánh Hòa nuôi tôm hùm, Kiên Giang nuôi cấy ngọc trai ở thành phố Phú Quốc cũng là những trung tâm du lịch nổi tiếng, đặc biệt là du lịch biển, đảo.
Chuyển thủ công sang công nghiệp
PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng nhấn mạnh việc tập trung chuyển từ ghề cá nhân dân (tự phát, manh mún, công nghệ lạc hậu, ngư dân là chủ thể) sang nghề cá thương mại (bền vững, liên kết, công nghệ cao, doanh nghiệp là chủ thể). Di chuyển từ nuôi trong các vùng biển kín, ven bờ ra các vùng biển mở, xa bờ. Áp dụng IMTA (nuôi biển đa dưỡng tích hợp cá, nhuyễn thể, rong tảo), vật liệu mới, bền vững, thân thiện với môi trường. Tích hợp nuôi biển với các ngành kinh tế biển khác như du lịch, dầu khí, nhựa, điện gió, vận tải biển.
Để nuôi biển phát triển cần nghiên cứu các mô hình đánh giá sức tải môi trường làm cơ sở cho việc lập quy hoạch phát triển công nghiệp nuôi biển. Nghiên cứu bảo vệ nguồn gen và phát triển đàn bố mẹ cho các loài hải sản bản địa có giá trị kinh tế cao. Nghiên cứu sinh sản nhân tạo và sinh sản tự nhiên một số loài hải sản; nghiên cứu thức ăn công nghiệp đối với một số loài có giá trị cao; phát triển công nghệ nuôi trồng, chế biến rong biển và nhuyễn thể làm thực phẩm, sinh phẩm, dược phẩm. Ứng dụng công nghệ số, cơ khí hóa, tự động hóa, năng lượng mới… cho cơ sở công nghiệp nuôi biển.
“Cần xây dựng mô hình công nghiệp nuôi biển”, PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng nói. Cụ thể, cơ sở nuôi cá biển công nghệ cao (trang bị công nghệ IoT kiểm soát môi trường, cho ăn và cảnh báo bảo vệ tự động). Cơ sở sản xuất giống công nghệ RAS tự động hóa. Nuôi hàu theo phương thức công nghiệp; nuôi ngao trong ao/bể có bổ sung thức ăn bằng vi tảo, vi khuẩn và mùn bã hữu cơ; trồng rong sụn trên vải. Công nghệ nuôi và phát triển sản phẩm chế biến cua biển; các mô hình IMTA; tàu nuôi cá biển ở vùng khơi; nuôi biển kết hợp du lịch và điện gió biển.
Công nghiệp hóa nuôi biển ở nước ngoài
Cơ hội cho ngành công nghiệp đóng tàu từ nuôi biển
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng, một trong những lĩnh vực có thể bổ trợ giúp nuôi thủy sản biển phát triển đó là ngành công nghiệp đóng tàu thủy. Cụ thể, việc đóng những đội tàu lớn để nuôi cá trên biển tương tự mô hình Trung Quốc là một gợi ý để Việt Nam áp dụng. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp đóng tàu còn có thể tạo ra những đội tàu vận chuyển dịch vụ công nghệ ngành nuôi biển, hay sản xuất các thiết bị phun thức ăn vào các lồng nuôi biển thông qua cơ giới hóa, tự động hóa.
Từ kinh nghiệm của các nước phát triển mô hình nuôi biển kết hợp với công nghệ đóng tàu, ông Dũng đề nghị Hội Khoa học kỹ thuật công nghiệp tàu thủy cùng Hiệp hội nuôi biển Việt Nam nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ đóng các tàu biển NTTS công nghiệp cỡ lớn, nhằm phát triển quy mô của ngành, giảm thiểu chất thải, bảo vệ môi trường.
Cùng đó, ông Dũng cũng đề xuất thỏa thuận hợp tác với Hội Khoa học kỹ thuật công nghiệp tàu thủy thử nghiệm và ứng dụng các thiết bị, máy móc, dụng cụ phục vụ nuôi biển công nghiệp. Hai bên có thể phối kết hợp tổ chức thi thiết kế trang thiết bị nuôi biển công nghiệp trên biển khơi, kết hợp du lịch biển, câu cá giải trí và các tàu dịch vụ khác.
SÁU NGHỆ