Thủy sản Việt Nam bứt phá từ nuôi biển công nghệ cao

Chính phủ xác định nuôi biển công nghiệp là trụ cột trong chiến lược phát triển kinh tế biển bền vững, nhằm giảm áp lực khai thác ven bờ, gia tăng giá trị xuất khẩu và khẳng định vị thế thủy sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Công nghệ định hình diện mạo mới

Trong bối cảnh nguồn lợi ven bờ suy giảm và yêu cầu thị trường quốc tế ngày càng khắt khe, nuôi biển đang được coi là hướng đi lâu dài để ngành thủy sản Việt Nam phát triển vươn xa. Những con số mới nhất từ Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho thấy, giai đoạn 2020–2024, diện tích nuôi biển của cả nước đã đạt 58.000 ha, thể tích lồng gần 9,7 triệu m³, tăng hơn 38% so với trước đó. Sản lượng cũng đạt 832.000 tấn, phản ánh tốc độ công nghiệp hóa mạnh mẽ của ngành. Nhiều địa phương như Quảng Ninh, Khánh Hòa, Phú Yên, Kiên Giang nổi lên như những “cực tăng trưởng” mới, góp phần định hình diện mạo nuôi biển Việt Nam trong giai đoạn mới.

Mô hình nuôi biển công nghệ cao của Tập đoàn STP tại đảo Phất Cờ, đặc khu Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh Ảnh: Thùy Khánh

Mục tiêu mà Chính phủ đặt ra đến năm 2030 là đưa diện tích nuôi lên 300.000 ha, thể tích lồng đạt 12 triệu m³, sản lượng 1,45 triệu tấn và giá trị xuất khẩu từ 1,8 đến 2 tỷ USD. Để đạt được cột mốc này, ngành thủy sản buộc phải thoát khỏi phương thức nuôi nhỏ lẻ ven bờ, phụ thuộc vào lồng tre gỗ truyền thống, để chuyển sang quy mô công nghiệp, nuôi xa bờ, ứng dụng công nghệ hiện đại và gắn liền với chuỗi giá trị toàn cầu.

Khẳng định hướng đi tất yếu đó, Diễn đàn “Phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển an toàn, bền vững, hiệu quả và thích ứng biến đổi khí hậu” do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với tỉnh Quảng Ninh tổ chức cuối tháng 8/2025 đã trở thành nơi để các bên nhìn lại thực trạng và bàn giải pháp. Tại đây, thông điệp chung được nhấn mạnh: nuôi biển công nghệ cao không chỉ là chìa khóa nâng cao năng suất, mà còn là chiến lược dài hạn để hội nhập quốc tế và thích ứng biến đổi khí hậu.

Những mô hình sử dụng lồng HDPE có thể tích từ 1.000 đến 6.500 m³ đã chứng minh hiệu quả vượt trội. Khi kết hợp với con giống nhân tạo và thức ăn công nghiệp, phương thức này giúp năng suất, lợi nhuận tăng thêm từ 13 đến 20% so với cách nuôi truyền thống, đồng thời giảm thiểu ô nhiễm, nâng cao khả năng chống chịu thiên tai.

Bước chuyển mạnh mẽ của địa phương

Sự chuyển mình rõ nét đã diễn ra ở nhiều địa phương. Hải Phòng, với hơn 125 km bờ biển, đã quy hoạch lại nuôi nhuyễn thể theo vùng, riêng Tiên Lãng có gần 1.900 ha. Thành phố còn ban hành kế hoạch bảo vệ nguồn lợi thủy sản đến 2030, đồng thời kiến nghị Trung ương hỗ trợ đầu tư hạ tầng vùng nuôi ven và ngoài khơi, nhằm tạo nền tảng cho việc chuyển đổi công nghệ.

Quảng Ninh cũng nổi lên như một điểm sáng khi mạnh mẽ thay thế lồng gỗ bằng lồng HDPE, coi đây là con đường duy nhất để tiến đến nuôi biển công nghệ cao. Trung tâm Khuyến nông tỉnh đóng vai trò cầu nối, tổ chức mô hình trình diễn, kết nối người nuôi với doanh nghiệp và thị trường, giúp địa phương phát triển theo hướng xanh, tuần hoàn.

Song song với nỗ lực của địa phương, nhiều doanh nghiệp trong nước cũng đã phát triển thành công lồng HDPE, lồng chìm, cụm lồng xa bờ chịu sóng gió, phù hợp khí hậu nhiệt đới gió mùa. Việc thử nghiệm tại Quảng Ninh, Khánh Hòa, Ninh Thuận cho thấy mô hình này giúp giảm thiệt hại mùa bão, tăng an toàn sinh học và giảm chi phí vận hành.

Tuy nhiên, chi phí đầu tư ban đầu lớn, thiếu bảo hiểm tài sản ngoài khơi, hạn chế về hạ tầng điện – viễn thông và logistics lạnh vẫn là những rào cản. Bà Lê Thị Hải, đại diện doanh nghiệp, chia sẻ: “Ứng dụng công nghệ cao với những loài có giá trị trung bình sẽ khó thu hồi vốn nhanh. Dù tích hợp AI, năng lượng mặt trời, quan trắc môi trường hay giám sát từ xa, vẫn cần hệ thống cảnh báo chủ động, bởi trong bão gió, con người không thể trực tiếp ở ngoài lồng bè để xử lý.”

Giải pháp đồng bộ cho tầm nhìn 2030

Ở góc độ nghiên cứu, các viện – trường đặc biệt nhấn mạnh đến việc làm chủ công nghệ sản xuất giống các loài chủ lực. Đây là bước then chốt để giảm phụ thuộc nhập khẩu, chủ động nguồn cung cho các trang trại công nghiệp, đồng thời gia tăng tỷ lệ nội địa hóa trong chuỗi cung ứng. Không chỉ dừng lại ở giống, các cơ sở nghiên cứu còn đưa ra nhiều công nghệ mới như lồng biển sâu, hệ thống bán kín, AI, IoT, robot vệ sinh lưới, năng lượng tái tạo và blockchain cho truy xuất nguồn gốc. Nếu được triển khai đồng bộ, Việt Nam hoàn toàn có thể rút ngắn khoảng cách với các quốc gia dẫn đầu và tiến thẳng vào quỹ đạo công nghiệp số.

Theo PGS.TS. Thái Thanh Bình, Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật và Thủy sản, khái niệm “nuôi cá bằng máy tính” giờ đã trở thành hiện thực. Ở nhiều nước, người ta có thể ngồi trong bờ để điều khiển nuôi cá ngoài biển.

“Việt Nam cũng phải tiến tới điều này. Các địa phương như Hải Phòng, Quảng Ninh cần có doanh nghiệp tiên phong, và các cơ sở đào tạo sẵn sàng đồng hành thử nghiệm. Có như vậy mới đủ sức cạnh tranh trong và ngoài nước”, ông Bình đề xuất.

Một mắt xích quan trọng khác là hợp tác xã (HTX). Theo Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam, HTX chính là lực lượng trung tâm để liên kết hộ nuôi, giúp họ tiếp cận công nghệ cao, vốn, bảo hiểm, dịch vụ thú y và thị trường. Thông qua HTX, việc áp dụng tiêu chuẩn, chứng chỉ bền vững trở nên khả thi, đồng thời tạo điều kiện ký hợp đồng bao tiêu với doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu. Thực tế tại Quảng Ninh, mô hình HTX Hàu sữa vừa mang lại lợi nhuận, vừa cải thiện môi trường biển, đồng thời góp phần xây dựng thương hiệu bản địa.

PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng – Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam nhấn mạnh rằng, trong ít nhất 10 năm tới, HTX vẫn sẽ là lực lượng chủ công hùng hậu nhất của nuôi biển Việt Nam.

“Để HTX thật sự phát huy vai trò, cần những giải pháp đột phá về cơ chế, chính sách. Trong đó, nổi bật là quy hoạch phát triển nuôi biển theo phương thức công nghiệp; hoàn thiện thủ tục pháp lý để giao khu vực biển lâu dài cho người dân và HTX; xây dựng các cụm công nghiệp nuôi biển; đăng kiểm cơ sở và phương tiện nuôi biển; phát triển bảo hiểm rủi ro cho tài sản và lao động; đào tạo nhân lực; đồng thời ban hành chính sách hỗ trợ vốn, đặc biệt là miễn giảm phí sử dụng khu vực biển trong những năm đầu để khuyến khích đầu tư”, ông Dũng nêu ý kiến.

Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cũng khuyến nghị, muốn nhân rộng nuôi biển công nghệ cao, trước hết cần chuẩn hóa kỹ thuật và đào tạo bắt buộc cho người nuôi. Đồng thời, phát triển mô hình nuôi đa loài – đa tầng (IMTA) để tận dụng dinh dưỡng trong hệ sinh thái, gắn sản phẩm với chứng chỉ bền vững, mở rộng thị trường xuất khẩu.

Đại diện Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho rằng, phát triển nuôi biển không chỉ dừng ở tăng trưởng sản lượng, mà cần thay đổi tư duy sản xuất. Ngành phải được tổ chức lại theo chuỗi giá trị khép kín: từ nuôi, thu hoạch, bảo quản, chế biến sâu đến tiêu thụ, toàn bộ quá trình minh bạch thông qua truy xuất nguồn gốc để đáp ứng chuẩn mực của những thị trường khó tính. Song song với đó là cách tiếp cận đa ngành, kết hợp nuôi biển với du lịch, năng lượng tái tạo, vận tải biển hay bảo tồn sinh thái, nhằm tối ưu tài nguyên và giảm xung đột không gian.

Sự kết nối của “năm nhà” – quản lý, khuyến nông, địa phương, viện – trường, doanh nghiệp và HTX chính là chìa khóa để mở ra một diện mạo mới cho thủy sản Việt Nam. Nhìn tổng thể, một gói giải pháp đồng bộ đang dần hình thành. Việc hoàn thiện quy hoạch không gian biển và hạ tầng vùng nuôi, chuẩn hóa công nghệ lồng HDPE, lồng chìm, cụm lồng xa bờ, đầu tư trung tâm giống chất lượng cao, phát triển hợp tác xã làm trục liên kết với doanh nghiệp chế biến – xuất khẩu, số hóa dữ liệu, ứng dụng blockchain và chứng chỉ quốc tế, cùng với đào tạo nguồn nhân lực tay nghề cao và bảo đảm an sinh nghề biển, tất cả đang tạo nền tảng cho ngành nuôi biển bứt phá.

Nếu những giải pháp này được triển khai quyết liệt, mục tiêu 1,45 triệu tấn sản lượng và 2 tỷ USD xuất khẩu từ nuôi biển vào năm 2030 hoàn toàn khả thi. Quan trọng hơn, nuôi biển công nghệ cao không chỉ là động lực tăng trưởng kinh tế, mà còn là chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm áp lực khai thác tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. Khi công nghệ, tài chính xanh và đổi mới sáng tạo cùng hội tụ trên biển, Việt Nam sẽ thật sự “ra khơi lớn”, khẳng định vị thế quốc gia biển trong khu vực và trên trường quốc tế.

Thùy Khánh
Nguồn:https://thuysanvietnam.com.vn/thuy-san-viet-nam-but-pha-tu-nuoi-bien-cong-nghe-cao/

popup

Số lượng:

Tổng tiền:

Email Gọi ngay Facebook
Facebook Chat Icon Xin chào!
Mình có thể giúp gì bạn
hiephoinuoibienvietnam